28/03/2022

26730

Ứng dụng của Lý thuyết trò chơi

1. Khái niệm

Lí thuyết trò chơi trong tiếng Anh là Game Theory.

Lí thuyết trò chơi là một khung lí thuyết để hiểu các tình huống xã hội (cuộc chơi) giữa những người chơi cạnh tranh nhau. Trên một vài khía cạnh, lí thuyết trò chơi là khoa học về chiến lược, hoặc ít nhất là việc ra quyết định tối ưu của các tác nhân độc lập và cạnh tranh trong một bối cảnh chiến lược. 

Những người tiên phong chính của lí thuyết trò chơi là các nhà toán học John von Neumann và John Nash, cũng như nhà kinh tế học Oskar Morgenster. Năm 1944  John von Neumann và Oskar Morgenstern viết và xuất bản cuốn sách “Lý thuyết trò chơi và các hành vi kinh tế”

2. "Tình trạng khó xử của tù nhân"

Giả sử hai kẻ bắt cóc bị bắt quả tang nhưng Cục điều tra liên bang (FBI) chỉ có chứng cứ chắc chắn để buộc họ tội nhẹ hơn. Trong cố gắng tìm thêm chứng cứ, FBI nhốt riêng tù nhân và ghi lời khai của họ theo cách sau. Mỗi tên bắt cóc được cho biết rằng (1) nếu một người phạm tội, thì người thú nhận mình phạm tội sẽ được trả tự do còn người kia bị tử hình, (2) nếu cả hai không phạm tội, thì cả hai đều nhận hình phạt nhẹ đi cùng với tội phạm ít nghiêm trọng hơn, (3) cả hai đều phạm tội, thì cả hai đều nhận hình phạt nghiêm khắc nhưng không đến nỗi chết. Dựa vào sự thưởng phạt và tính không chắc chắn, giải pháp dự đoán là cả hai đều nhận tội bắt cóc.

Hình 2.1. Tình trạng khó xử của tù nhân

Bài toán này nổi tiếng với tên gọi "Tình trạng khó xử của tù nhân", có sự giống nhau trực tiếp trong nhiều loại hành vi kinh tế.

Lý thuyết trò chơi nghiên cứu cách lựa chọn hành vi tối ưu khi chi phí và lợi ích của mỗi lựa chọn là không cố định, mà phụ thuộc vào lựa chọn của các cá nhân khác.

3. Tác động của lý thuyết trò chơi đến kinh tế

Lí thuyết trò chơi đã mang lại một cuộc cách mạng về kinh tế bằng cách giải quyết các vấn đề quan trọng trong các mô hình kinh tế toán học trước đây. Ví dụ, kinh tế học tân cổ điển phải vất vả để tìm hiểu dự đoán kinh doanh và không thể giải thích cạnh tranh không hoàn hảo. Lí thuyết trò chơi chuyển sự chú ý khỏi trạng thái cân bằng ổn định tới các hành động trong thị trường.

Trong kinh doanh, lí thuyết trò chơi có lợi cho việc mô hình hóa các hành vi cạnh tranh giữa các tác nhân kinh tế. Các doanh nghiệp thường có một số lựa chọn chiến lược ảnh hưởng đến khả năng hiện thực hóa lợi ích kinh tế của họ. 

Ví dụ, các doanh nghiệp có thể phải đối mặt với những vấn đề nan giải như liệu có nên dừng sản xuất các sản phẩm hiện có hoặc phát triển các sản phẩm mới, giảm giá thấp hơn so với đối thủ hay sử dụng các chiến lược tiếp thị mới. 

Các nhà kinh tế học thường sử dụng lí thuyết trò chơi để hiểu hành vi của công ty độc quyền tập đoàn. Lí thuyết trò chơi giúp dự đoán các kết quả có khả năng xảy ra khi các công ty tham gia vào một số hành vi nhất định, chẳng hạn như ấn định giá và thông đồng.

4. Ứng xử của doanh nghiệp trên thị trường

Thị trường có bốn hình thái cấu trúc là: (1) thị trường cạnh tranh hoàn hảo; (2) thị trường cạnh tranh độc quyền; (3) thị trường độc quyền và (4) thị trường độc quyền nhóm. Các doanh nghiệp hoạt động trên ba loại thị trường (1,2,3) đều tuân theo nguyên tắc MR = MC (lợi nhuận biên bằng chi phí biên) để nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhưng ở thị trường độc quyền nhóm, mỗi doanh nghiệp có một thế lực nhất định, đồng thời tồn tại tương tác chiến lược (về định giá và sản lượng) với những doanh nghiệp khác thì công thức MR = MC không còn thích hợp.

Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh có tính độc quyền, các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành giật thị trường, mức độ cạnh tranh rất quyết liệt theo kiểu “cá lớn nuốt các bé”. Trên thị trường độc quyền nhóm, sự cạnh tranh khốc liệt sẽ dẫn đến hậu quả là các doanh nghiệp đều bị tổn thất, thiệt hại to lớn. Đã đến lúc các doanh nghiệp phải tìm cách thỏa hiệp, “hợp tác” với nhau để tránh bị tổn thất. Nhưng trong hợp tác lại luôn đi liền với sự “phản bội”, bởi vì sự phản bội đem lại cho doanh nghiệp khoản lợi nhuận kếch xù. Vậy là, giữa các doanh nghiệp tồn tại một kiểu ứng xử “vừa hợp tác, vừa cạnh tranh” với nhau. Nhưng tình trạng này luôn luôn tiềm ẩn sự rủi ro, bất ổn buộc các doanh nghiệp lớn phải có chiến lược kinh doanh ổn định, đảm bảo lợi ích của mình.

Sự thỏa thuận cùng nhau thực hiện các quy tắc về “ứng xử chung – COC - general code of conduct” là một giải pháp khôn ngoan, đảm bảo cho các doanh nghiệp độc quyền nhóm cùng thắng trong kinh doanh “win – win”. Trên thực tế, chúng ta có thể thấy mô hình kinh doanh hiệu quả của khối các nước OPEC là một điển hình. (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (Organization of Petroleum Exporting Countries, viết tắt OPEC) là tổ chức có là đảm bảo thu nhập ổn định cho các quốc gia thành viên và đảm bảo nguồn cung dầu mỏ cho các khách hàng.)

                                                                                                          -Viện Đào tạo Sau đại học-